Bà già sống gần cống Đá nuôi đám vịt xiêm ăn chung mâm ngủ chung giường. Ông Chín Ô Rô mặt mũi ảm đạm, lúc nào rảnh tay cũng làm động tác vá khâu mải miết vào hư vô trước mặt. Anh Út Sáu sống trên cây bàng trước miễu, trừ lúc xuống sông tắm và vệ sinh cá nhân. Một chị khó đoán tuổi thật, mặt ẩn mật sau lớp phấn dày, dọc ngang xóm bằng kiểu đi một hai điều lệnh. Thầy Thủy cụt giò nhà sau trường học, mưa nào cũng lấy nước mưa làm mực, viết lên lá cây những chữ mông lung.
Rốt cuộc, chẳng ai thành ông đạo bà đạo. Chắc bởi thời lạc lối, tranh tối tranh sáng của những ông đạo miền Tây qua rồi, giờ người ta có thứ để tựa vào, không tôn giáo thì là lý tưởng, cơm áo. Chắc bởi những con người ấy chỉ có mỗi mưu cầu là được sống theo cách mà mình muốn (và với họ, đời sống ấy mới là bình thường). Hoặc họ kiêu hãnh đến nỗi không thấy ai vừa mắt để mời mọc nhập bầy. Không lập ngôn, chẳng ra vẻ cao siêu, họ cũng không thiết gì lôi kéo, quấy rầy. Dẫu cuộc thu mình chẳng được gọn gàng như mong đợi bởi lúc nào cũng có một đám trẻ bu theo. Nghèo âu lo nhưng giàu có thời gian, ở cái thời trẻ con chưa bị nhồi nhét, bị chết ngộp trong bài vở, tụi nhỏ bám dính họ không buông. Hoặc tò mò (sao ổng ngủ trên nhánh cây mà không té lọi giò, ông thầy kia viết gì, hay bà già nọ hay cặp hai cái hột vịt vô nách, chắc là muốn ấp ra con?!), hoặc chọc ghẹo, phá đám cho vui. Còn gì khoái bằng nhìn chị mặt phấn không thể giữ chân đều bước trước con rắn nằm chắn ngang đường, anh Út Sáu bất lực đứng ngó nhà mình bỗng chình ình mấy ổ ong vò vẽ.
Du lịch bằng ghe trên sông ở miền Tây.
Cũng nổi khối, vồng lên như mấy cô gái chửa không chồng, chị hàng xóm bốc hơi, bọn choai choai nghiện ngập, nhưng chỉ khi nhìn vào một cuộc đời lạ thường, người ta mới có cảm giác gì như tức giận, như ghen tị. Những giấc mơ thất lạc bỗng quy hồi, nhớ ra mình từng muốn bay vào vũ trụ, làm vũ công balê, ngủ trên mái nhà. Nhớ ra mình đã thèm khát biết bao được biến thành đàn bà để mang giày cao gót, mặc đầm cho thỏa. Nhớ ra mình từng muốn cưới con mèo, ước sau này đào hang làm nhà trong đất, từng tin nếu ngâm mình trong sông đủ lâu thì người sẽ lợp vảy, mọc đuôi. Mớ ước mơ nhanh chóng bị hiện thực chôn vùi, “còn không xách dao đi đào khoai vô độn cơm, ngồi đó mà mơ mộng viễn vông”. Múa hát, thơ phú thì ăn không khí mà sống chắc? Trường y không có chỗ cho hết thảy, thì thợ may, dạy học, làm mộc, làm vườn. Ở cái thời đàn ông con trai nuôi tóc dài đã khó coi rồi, con gái qua ba mươi chưa chồng là nỗi đau của dòng họ, một hình xăm cũng chọc đau mắt đám đông, những bình thường lợp lên ngờm ngợp những đời người, thành một tiêu chuẩn chung của xã hội. Bình thường hay tầm thường, nhiều khi khó phân biệt nổi.
Vậy mà vài ba con người vẫn bất chấp hết thảy để sống cuộc đời mà mình chọn lựa. Nghĩa là phải chịu phơi mình ra trước ngàn con mắt ngó, hiện diện trong những lá thơ dân xóm gửi thân hữu phương xa như mấy kẻ điên khùng, bị một đám trẻ lấy làm trò tiêu khiển. Nhưng chỉ tụi nhỏ mới biết thầy Thảo không viết văn thơ trên lá, ông nói kinh qua chiến tranh rồi mà còn làm thơ được thì phước quá, ông viết đây là di chúc. Hỏi sao không viết bằng mực tím, xanh, ông bảo chúc thư cho xương thịt bạn bè bị vùi trong đất phải nước mưa mới đúng. Hay ông Chín Ô Rô, sở dĩ tay không lúc nào rảnh là bởi vá cả đống thứ rách đôi. Sông rách, núi rách, cây rách, nắng rách nhìn đâu cũng thấy rách. Vá đó lại rách đó, thiệt là. Hay bầy vịt xiêm mà bà già cưu mang, là cháu chắt của con vịt mà tía bà đặt vào tay bà, hồi bảy tuổi, ông nói làm mất vịt là tao đánh mềm mình, rồi ông tan vào một đám đông, từ đó. Hay anh Út Sáu, bỏ nhà lên sống trên cây chính là “tại thích”, chứ chẳng phải lý do éo le nào.
Bao con mắt dịu lại, dần thưa quanh những kẻ lạ lùng, ai đâu rảnh hoài, người ta còn phải làm lụng kiếm miếng ăn. Sống đời bình thường cũng đâu có dễ. Thậm chí đã có lúc người ta quên phứt luôn, một bữa ngang qua miễu Chúa xứ thấy cây bàng trơ gốc, hỏi nhau Út Sáu đã dọn tới sống ở vườn nào. Không một lời chào.
Thứ giữ họ lại với xóm làng là ký ức. Mà ký ức cũng dần mai một. Ở cái buổi chưa có điện thoại thông minh, mạng xã hội, chưa có rừng máy quay đủ kiểu mở trừng soi mói, và người đời thì hãy còn bao dung, không nhảy xổ vào phán xét, trái lại còn giúp sức trong âm thầm: ngăn tụi nhỏ đừng làm điều quấy quá, lâu lâu tặng cho túi gạo, trái mướp, củ khoai, nhờ vậy mà những kẻ dị thường ấy ít nhiều đã đi đến cuối. Cái đời sống mà họ đeo đuổi vẫn còn nguyên một lớp sương mù, và may mắn làm sao, cho đến cuối cùng họ vẫn chưa bị rừng mắt tước đoạt đi cái quyền được vào miền quên lãng.
Nguyễn Ngọc Tư
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn