Phạm Phú Hải sinh ra ở Tam Kỳ, Quảng Nam rồi theo gia đình về Đà Nẵng định cư. Năm 20 tuổi, ông bị bệnh tâm thần, và chấp nhận số phận nổi nênh vô định, như ông viết: “Một năm có bốn mùa nhưng tôi biết có một mùa thứ năm/ Không gian có bốn phương nhưng tôi biết một phương thứ năm/ Tôi đang sống trong mùa và phương không tên gọi đó”.
Thế nhưng, cách ứng xử của Phạm Phú Hải thật đặc biệt, như ký ức của nhạc sĩ Vũ Ngọc Giao: “Tuổi thơ tôi có những buổi chiều đứng ở hiên nhà, không có bạn để chơi. Ông thường đến nhà tôi vào những buổi chiều như thế. Từ xa nhìn thấy tôi đứng tựa ở cửa, ông luôn cười, nụ cười thật hiền và gọi tôi. Bao giờ cũng vậy, ông ngồi ngoài vườn chơi một lúc rồi vào nhà ngồi đọc sách đợi cha tôi về. Ngày đó tôi còn bé, mỗi khi ông đến, tôi thích thú nhảy nhót quanh sân vì tôi biết sắp sửa được đi mua kẹo.
Tôi nhanh nhảu ra vườn, len vào những vạt cải xanh tìm bắt những chú dế và những con bọ cánh cứng, đến trước mặt ông, tôi xòe tay ra. Trong đó là một chú dế, cũng có khi là một con bọ cánh cứng đã nằm gọn lỏn. Nhìn thấy chúng, lần nào ông cũng khẩn khoản bảo tôi: “Cho chú xin nó đi! Chú cho con tiền mua kẹo”. Chỉ chờ có vậy, tôi trao “chiến lợi phẩm” cho ông và chạy biến đi. Còn một mình, ông nâng niu, ấp những con dế, con bọ vào vạt cải, thì thầm trò chuyện”.
Phạm Phú Hải năm 16 tuổi.
Sức khỏe yếu đuối, Phạm Phú Hải phải nghỉ học nửa chừng, sau đó cố gắng học hàm thụ để hoàn thành chương trình trung học phổ thông. Phạm Phú Hải làm thơ từ rất sớm, như một cách đáp trả định mệnh: “Có bàn chân dài hơn con đường/ Nên chân trời là những đốt xương/ Của ai bỏ lại ngàn năm trước/ Sửng sốt kêu lên tiếng dị thường/ Ngủ cũng có đôi khi mở mắt/ Chiêm bao thấy được vạn màu xanh/ Giận quá giận đất trời vô loại/ Nhẫn tâm xô chết những bình minh”. Thơ ông cũng lạc lõng và bơ vơ như chính ông, đi bên lề nhân gian, vừa ngơ ngác vừa mong manh.
Lúc còn tại thế, Phạm Phú Hải tự chọn thơ mình thành ba tập “Tiếng hú đầu”, “Gánh nước tưới sông” và “Thâm lâm ngâm”; nhưng không có cơ hội xuất bản. Năm 2009, người quen gửi tập thơ “Một hôm núi khóc” của Phạm Phú Hải để dự thi giải thưởng Thơ Bách Việt. “Một hôm núi khóc” chưa kịp rời khỏi nhà in, thì ông trút hơi thở cuối cùng vào ngày 6/5/2009. Kỷ niệm 1 năm Phạm Phú Hải mất, em gái của ông là Phạm Thị Thuận tiếp tục in tập thơ “Gánh nước tưới sông” an ủi vong linh anh trai nhọc nhằn dương gian: “Tự rút xương làm gậy chống đi/ Lột da chân mà kết làm giày/ Bứt ngàn sợi tóc đan làm mũ/ Nấu chín thời gian uống thật say”.
Phạm Phú Hải từng theo học một thầy lang gốc Hoa và khá giỏi châm cứu. Tuy nhiên, Phạm Phú Hải chỉ mưu sinh bằng nghề ấy được 4 năm, từ 1979 đến 1983. Có hai giai đoạn Phạm Phú Hải tỉnh táo hoàn toàn thì ông đều đi làm với kỹ năng đánh máy. Giai đoạn 1971-1974, Phạm Phú Hải làm thư ký ở công ty nhôm Triều Thạnh. Giai đoạn 1985-1989, Phạm Phú Hải làm nhân viên hành chính ở Nhà xuất bản Đà Nẵng.
Bệnh tâm thần như một sự trêu đùa của Thượng Đế với Phạm Phú Hải. Và ông dùng thơ để chống lại những nỗi phiêu diêu đeo bám tâm trí mình: “Mặt tôi nhìn thẳng mặt người/ Mặt trăng mặt đất mặt trời nhìn theo”. Căn phòng nhỏ của anh trên ngôi nhà đường Phan Châu Trinh ở Đà Nẵng gây ấn tượng cho bạn bè vì “chật cứng sách quý, nhiều nhất là sách triết và ngôn ngữ, văn chương kinh điển. Mỗi lần có khách, anh thường nói về những người bạn anh quen biết yêu thích văn thơ, say mê viết lách”.
Phạm Phú Hải cư ngụ thân xác ở đô thị miền Trung nhưng hồn vía ông tồn tại ở cõi khác “Sáng dậy điểm tâm bằng điếu thuốc/ Ngày rồi qua mỏng như chiêm bao”. Cho nên, ông có những cảm giác đặc biệt: “Gió đi trên những nóc nhà/ Hồn đi trên những tiếng gà đầu đêm/ Chợt nghe xương cứng trở mềm/ Từng hồi chuông mộ đổ rền dưới da”.
Bút tích của nhà thơ Phạm Phú Hải.
Trong triền miên cô độc, Phạm Phú Hải cũng thầm yêu trộm nhớ một cô gái tên Ngọc. Đó là nàng thơ của riêng ông. Bài thơ “Đà Nẵng mùa thu”, ông viết tặng Ngọc: “Dòng trong đọng bóng Ngũ Hành Sơn/ Sóng lên sóng xuống gợn muôn trùng/ Nửa con thuyền đậu hai màu khói/ Lạnh cánh cò bay ngửa đáy sông”. Thậm chí, ông trực tiếp gọi tên người trong mộng: “Này Ngọc làm sao nói được đây/ Trăng khuya nhớ nắng, đêm trông ngày/ Mắt em vũ trụ chìm trong ấy/ Tôi ngợp hồn chim không dám bay”.
Nhà thơ Nguyễn Kim Huy, người có vài năm làm việc với Phạm Phú Hải ở Nhà xuất bản Đà Nẵng, chia sẻ: “Dẫu tâm trí luôn ở trong thế giới dị thường ấy, anh vẫn biết ơn cõi tạm cuộc đời này đã cho thân anh trú ngụ. Anh biết ơn những bậc sinh thành, lo sợ một ngày cha mẹ ra đi qua chùm thơ viết về cha, mẹ. Và anh yêu, có nhiều bài thơ viết về tình yêu, những bài thơ khắc khoải, say đắm, vô lượng mà anh là một người yêu tận cùng, yêu thầm lặng, yêu tuyệt vọng, yêu chung thủy, yêu không cần đền đáp, yêu chỉ để gởi lại trong thơ và nguyện cầu cho người mình yêu được xinh đẹp, vui sống, hạnh phúc… Yêu trong tâm thế riêng, cách thể hiện riêng, nghẹn ngào mà mãnh liệt, lặng lẽ mà nồng nàn, như yêu cái đẹp, yêu con người, yêu cuộc sống theo cách rất riêng của anh, trong những kỳ vọng anh hằng hướng tới khi anh đối diện thế giới nghiệt ngã và đẹp đẽ mà chúng ta vẫn gọi là cuộc sống này. Những điều vọng tưởng lung linh huyền hoặc ấy, anh gởi hết vào những bài thơ về tình yêu”.
Bất hạnh bủa vây Phạm Phú Hải, nhưng phẩm chất thi sĩ của ông không chịu hao mòn. Đối với ông, mỗi sinh vật xung quanh đều đáng trân trọng. Ông thảng thốt “Vô tình khi xối nước rửa chân/ Em gây trận lụt lớn vô cùng/ Xóm làng chìm ngập màu tang tóc/ Kiến mẹ bơ phờ kiếm kiến con”. Ông nhắn nhủ: “Buổi mai khi quét lá vườn/ Xin em chừa lại giọt sương đầu thềm/ Biết đâu trong luống cỏ mềm/ Một con dế nhỏ suốt đêm đứng chờ”. Ông ngậm ngùi: “Hạt bụi nhỏ ngủ trên da/ Phải chăng từ một phương xa tìm về/ Nước trong ngàn chảy bốn bề/ Em ơi hạt bụi biết về nơi đâu?”.
Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh có một thời gian gần gũi Phạm Phú Hải, tiết lộ: “Phạm Phú Hải là một chàng trai hiền lành, với đôi mắt rất sáng. Phạm Phú Hải yêu tất thảy mọi sinh linh. Yêu thương, với anh là một thứ biệt dược. Đúng hơn, là loại động cơ vĩnh cửu quyết định phản ứng của anh với thế giới. Con người Phạm Phú Hải chắc chắn chưa từng ghét ai. Phạm Phú Hải chơi thân với nhiều nhà sư. Những ngày tôi học ở Đà Nẵng, Phạm Phú Hải thường rủ tôi đến các Phật tự, có hôm qua tận bên Sơn Trà vãn cảnh chùa và đàm đạo với các sư thầy. Phạm Phú Hải chí thú rong chơi trong cõi riêng của mình, ắt nhiên là thứ phiên bản dị thường trong mắt các hồng nhan”.
Tập thơ “Gánh nước tưới sông” của nhà thơ Phạm Phú Hải.
Phạm Phú Hải làm thơ không có mục đích gì, không có cao vọng gì. Ông viết như thở, ông viết như chơi: “Làm thêm cho được bài thơ/ Dán lên vách đá ngồi chờ gió bay/ Gió bay bay mất một ngày/ Bay về Tịnh Độ chắp tay lại chào”. Ông viết như cất tiếng gọi bản thân: “Giữa vườn tôi đứng nói mê/ Âm thanh năm cũ chưa về hay sao?”.
Thơ lục bát của Phạm Phú Hải có một giọng điệu độc đáo. Câu sáu và câu tám cứ tung tăng, cứ múa lượn, cứ thảnh thơi mà lại hòa quyện mà lại nảy nở: “Tháng giêng cỏ mọc tháng hai/ Tháng ba cỏ vội mọc dài tháng tư/ Tháng năm cỏ mọc từ từ/ Tháng mười cỏ lại mọc như năm nào/ Em về nắng lạnh trên cao/ Con đường mặt đất cỏ chào chân em”, hoặc: “Anh về quê cũ với em/ Nắng trong mưa chảy rất mềm mặt sông”.
Phạm Phú Hải sống ở mùa thứ năm hoặc phương thứ năm như chính ông thổ lộ. Vì vậy, thơ ông có không gian riêng: “Một hôm núi khóc/ Tiếng lệ chứa chan”, thơ ông có thẩm mỹ riêng: “Một cây ớt/ Mọc ra biết bao nhiêu con chuồn chuồn đỏ”. Hàng trăm bài thơ Phạm Phú Hải gửi lại cho độc giả hôm nay và mai sau, có nỗi đau đớn tạo hóa trớ trêu: “Có lẽ đã thở lầm hơi thở/ Của ai kia từ buổi lọt lòng ra/ Mây trắng quá suốt đời ta nói mớ/ Nên suốt đời mây trắng vẫn bay xa”, nhưng cũng có niềm tin cậy tri âm bất ngờ:“Khi ta lịm ngất bên đồi/ Là trong đáy chén có người khóc ta”.
Lê Thiếu Nhơn
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn